BẤT CẬP TRONG THANH QUYẾT TOÁN
1. Ý nghĩa của đầu tư công
Đầu tư công là một trong những công cụ quan trọng mà Nhà nước sử dụng để thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững và bảo đảm an sinh xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đầu tư công giữ vai trò then chốt trong việc hình thành cơ sở hạ tầng, tạo nền tảng cho phát triển dài hạn, đồng thời góp phần tháo gỡ những điểm nghẽn của nền kinh tế, nhất là trong những giai đoạn khó khăn, khủng hoảng.
Trước hết, đầu tư công có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, từ giao thông, thủy lợi, năng lượng, viễn thông đến y tế, giáo dục, khoa học công nghệ. Đây là những lĩnh vực mà khu vực tư nhân thường không mặn mà đầu tư do thời gian hoàn vốn dài, lợi nhuận thấp hoặc rủi ro cao. Nhà nước, với vai trò định hướng và dẫn dắt, đầu tư vào những lĩnh vực này để tạo lập một môi trường phát triển thuận lợi cho toàn nền kinh tế. Khi hạ tầng được cải thiện, chi phí sản xuất, vận chuyển của doanh nghiệp giảm xuống, khả năng tiếp cận thị trường mở rộng, từ đó tăng năng suất lao động và hiệu quả đầu tư của toàn xã hội. Ví dụ, việc xây dựng các tuyến đường cao tốc như Bắc-Nam, vành đai 3 TP.HCM hay các cây cầu lớn nối liền các tỉnh vùng sâu, vùng xa không chỉ rút ngắn khoảng cách địa lý, mà còn tạo ra các động lực mới cho thương mại, du lịch, thu hút đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực.
Thứ hai, đầu tư công còn là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô hiệu quả, nhất là trong các giai đoạn nền kinh tế gặp khó khăn. Khi tổng cầu suy giảm, Chính phủ có thể tăng chi đầu tư công nhằm kích thích tiêu dùng, tạo công ăn việc làm và khơi thông dòng tiền trong nền kinh tế. Điều này đặc biệt rõ ràng trong các giai đoạn khủng hoảng tài chính hoặc đại dịch như Covid19. Trong năm 2020-2021, khi khu vực tư nhân thu hẹp sản xuất, đầu tư công đã đóng vai trò “bệ đỡ” cho nền kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng và giữ vững ổn định xã hội. Các gói kích cầu từ ngân sách nhà nước được thực hiện thông qua đầu tư vào các công trình cơ sở hạ tầng, chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, giáo dục, hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn.
Thứ ba, đầu tư công giúp hướng dòng vốn vào những lĩnh vực, khu vực mà khu vực tư nhân không thể hoặc không muốn tham gia, từ đó đảm bảo công bằng, giảm khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền. Ở Việt Nam, đầu tư công tập trung ưu tiên cho các vùng khó khăn như miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, nơi có điều kiện phát triển còn hạn chế. Việc Nhà nước đầu tư vào hạ tầng giao thông, điện lưới, cấp nước, trường học, bệnh viện ở các khu vực này giúp người dân tiếp cận dễ dàng hơn với các dịch vụ thiết yếu, nâng cao chất lượng cuộc sống, đồng thời tạo điều kiện để thu hút doanh nghiệp đầu tư, tạo việc làm tại chỗ, thúc đẩy phát triển bền vững và bao trùm. Như vậy, đầu tư công góp phần thực hiện các mục tiêu an sinh xã hội và phát triển công bằng giữa các vùng miền trong cả nước.
Một ý nghĩa lớn khác của đầu tư công là tạo cú hích để kích hoạt và dẫn dắt đầu tư tư nhân. Thực tiễn cho thấy, ở nhiều lĩnh vực, nhà nước đầu tư ban đầu để tạo nền tảng, môi trường và niềm tin, sau đó khu vực tư nhân và nước ngoài sẽ tiếp bước, đầu tư sâu hơn, đa dạng hơn. Đây được gọi là hiệu ứng “vốn mồi”-vốn đầu tư công tạo ra hiệu ứng lan tỏa, thu hút các nguồn lực đầu tư khác. Ví dụ, khi nhà nước đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu kinh tế, sân bay, cảng biển hoặc các tuyến đường lớn, doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư xây dựng nhà máy, kho bãi, logistics, hoặc mở rộng kinh doanh nhờ khả năng kết nối và chi phí vận chuyển giảm. Như vậy, đầu tư công đóng vai trò như một “đòn bẩy” kích hoạt cả hệ thống kinh tế vận hành hiệu quả hơn.
Đầu tư công cũng có vai trò to lớn trong tạo việc làm, tăng thu nhập và thúc đẩy tiêu dùng nội địa. Quá trình triển khai các dự án đầu tư công, đặc biệt là các dự án xây dựng cần đến hàng trăm nghìn lao động từ công nhân, kỹ sư đến nhân lực hỗ trợ. Khi có thu nhập, người lao động chi tiêu nhiều hơn, qua đó tạo ra “vòng tuần hoàn” tiêu dùng-sản xuất-tăng trưởng. Ở góc độ xã hội, đây là kênh quan trọng giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu ngân sách nhà nước từ thuế và phí, cũng như giảm áp lực an sinh xã hội trong những thời kỳ khó khăn.
Không chỉ vậy, đầu tư công còn mang ý nghĩa chiến lược trong phát triển khoa học-công nghệ và nâng cao năng lực quản trị quốc gia. Các khoản đầu tư vào cơ sở nghiên cứu, đào tạo, chuyển giao công nghệ và hệ thống dữ liệu quốc gia giúp xây dựng nền tảng cho nền kinh tế số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Đồng thời, đầu tư vào hệ thống hành chính công, hạ tầng số, chính phủ điện tử giúp tăng hiệu quả quản lý nhà nước, công khai minh bạch và phòng chống tham nhũng. Đây là những yếu tố then chốt trong cải cách hành chính và nâng cao năng suất toàn nền kinh tế.
Một khía cạnh khác không thể bỏ qua là đầu tư công góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững, bao gồm bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo đảm bình đẳng giới và phát triển bao trùm. Những dự án như trồng rừng, xây dựng hệ thống đê điều, công trình thủy lợi, xử lý rác thải, ứng phó xâm nhập mặn… đều được tài trợ từ nguồn vốn đầu tư công. Đây là những lĩnh vực mà hiệu quả kinh tế trực tiếp không cao, nhưng có ý nghĩa lâu dài đối với ổn định và an toàn của quốc gia. Khi biến đổi khí hậu đang là thách thức toàn cầu, vai trò của đầu tư công càng trở nên rõ nét hơn trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và đảm bảo phát triển hài hòa giữa kinh tế-xã hội-môi trường.
2. Nguyên nhân của chậm trễ giải ngân đầu tư công
“Vụ án tại Tập đoàn Phúc Sơn, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã tuyên án đối với cựu Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc Hoàng Thị Thúy Lan, Chủ tịch Tập đoàn Phúc Sơn Nguyễn Văn Hậu cùng 39 bị cáo. Hội đồng xét xử tuyên phạt bà Hoàng Thị Thúy Lan 14 năm tù về tội nhận hối lộ 48 tỷ đồng và gây thiệt hại 200 tỷ đồng; cựu Bí thư Tỉnh ủy Quảng Ngãi (cũ) Lê Viết Chữ bị tuyên phạt 7 năm tù về tội nhận hối lộ 6 tỷ đồng từ Chủ tịch Tập đoàn Phúc Sơn…Điểm chung đáng lưu ý ở 2 vụ án trên là trong số những bị can bị truy tố, bị cáo bị kết tội, có những người là cán bộ cấp cao, giữ những vị trí quan trọng trong cơ quan lập pháp và cơ quan quản lý Nhà nước. Hành vi của các bị can, bị cáo vi phạm nghiêm trọng quy định liên quan đến đấu thầu, đưa hối lộ và nhận hối lộ trong các dự án đầu tư công.”[1]
Những năm qua có nhiều vụ án được đưa ra truy tố xét xử liên quan đến hành vi thiếu trách nhiệm, gây hậu quả nghiêm trọng, hành vị tham nhũng, tiêu cực trong xử lý công vụ. Nhưng phần lớn các vụ án hầu hết có liên quan đến việc “chung chi’ tiền bạc, có dính liếu đến tiền bạc, có cho có nhận của người có chức vụ, của chủ đầu tư và nhà thầu để có thể thực hiện trơn tru dự án. Ít có vụ án nào sai phạm lại dính đến sự vô tư, khách quan, không nhận “một đồng” của nhà thầu, của các cơ quan nhà nước có liên quan để bôi trơn dự án. Bên cạnh sự cảnh tỉnh có tính giáo dục, ngăn chặn, răn đe đối với các hành vi có thể xảy ra trong tương lai thì một bộ phận lại lợi dụng sự kiện này để cố tình thổi phồng câu chuyện để gây khó khăn cho các chủ đầu tư các dự án trong việc làm thủ tục thanh toán, quyết toán các dự án từ nhân viên thừa hành đến lãnh đạo chuyên môn.
Trong hệ thống quản lý tài chính-ngân sách nhà nước hiện nay, đội ngũ cán bộ làm công tác tài chính kế toán, đặc biệt là những người trực tiếp phụ trách hồ sơ, thủ tục thanh-quyết toán, giữ vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả và đúng quy định của pháp luật đối với các nguồn chi ngân sách nhà nước, nhất là trong lĩnh vực đầu tư công. Tuy nhiên, trên thực tế, tại nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương, vẫn tồn tại tình trạng một bộ phận cán bộ làm công tác tài chính kế toán có trình độ chuyên môn yếu, thiếu kỹ năng xử lý nghiệp vụ, chậm cập nhật quy định pháp luật mới, thậm chí có biểu hiện nhũng nhiễu, gây khó dễ trong quá trình giải quyết hồ sơ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, cũng như làm giảm niềm tin vào sự minh bạch của bộ máy quản lý tài chính công.
Một dự án được chấp thuận từ nguồn vốn đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước trước đây phải qua nhiều thủ tục từ đề xuất, thẩm tra, phê duyệt. Để dự án kết thúc cần phải thực hiện bước quyết toán dự án hoàn thành. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra sự lo sợ của các chủ đầu tư trong việc triển khai các dự án khác hoặc tiếp tục hay kết thúc dự án. Một “khâu” gây ra sự khó khăn và tốn rất nhiều thời gian và chi phí nhân lực để hoàn tất thủ tục. Lý giải về điều này có rất nhiều nguyên nhưng nguyên nhân chủ yếu do cán bộ thực hiện còn nhiều hạn chế về năng lực chuyên môn, còn mang tính chủ quan trong việc hiểu rõ các quy định, văn bản của pháp luật, áp dụng một cách “máy móc” tùy nghi. Bên cạnh đó một số cán bộ thoái hóa biến chất cố tình kéo dài để mong có một “cơ hội” kiếm thêm thu nhập.
Báo cáo từ Bộ Tài chính cho biết, trong năm 2022, cả nước có 45.168 dự án đã được phê duyệt quyết toán, chiếm 64,5% dự án hoàn thành (DAHT), thấp hơn 0,5% so với năm 2021 (65%). Bên cạnh đó, còn 24.875 dự án chưa phê duyệt quyết toán (bằng 35,5% DAHT)[2]. Nhiều dự án chưa thanh toán, quyết toán kéo dài nhiều năm, có dự án hơn 10 năm chưa quyết toán được do thiếu các văn bản cần phải bổ sung theo yều cầu của cán bộ nhận hồ sơ. Điều đáng nói có những văn bản mang tính chất quy trình xử lý như tờ trình, văn bản quyết định của chủ đầu tư để triển khai thực hiện một gói thầu trên cơ sở văn bản có sự đồng ý, chấp thuận của các cơ quan chủ quản hoặc cơ quan cấp trên, nếu không có thì không thể thực hiện hồ sơ thanh toán, quyết toán. Một cách nghĩ mang tính tiêu cực khác thường thấy là hợp đồng của gói thầu, trên phần căn cứ phải liệt kê toàn bộ mà không hiểu hoặc cố tình không hiểu trên hệ thống muasamcong hoặc các căn cứ văn bản có liên quan đã đề cập thì không nên lập lại trong hợp đồng mà chỉ nên các căn cứ chủ yếu để lập hợp đồng. Ví dụ hợp đồng nhà thầu liên danh để thực hiện gói thầu thì trên hồ sơ mời thầu có yêu cầu phải có thỏa thuận liên danh được gửi trên hệ thống mua sắm công, hồ sơ đã đối chiếu tài liệu đính kèm trong hồ sơ dự thầu thì không cần yêu cầu nhà thầu cung cấp một bảng rời hoặc bắt buộc phải ghi trong phần căn cứ của hợp đồng vì nội dung hợp đồng đã ghi rõ các nội dung mà nhà thầu liên danh đã thực hiện. Mặt khác, việc “đẻ” ra nhiều quy trình trong hồ sơ gây tốn nhiều thời gian như Tờ trình, rất nhiều công đoạn phải có tờ trình không cần thiết.
Những nguyên nhân khó khăn này trước hết, trình độ cán bộ, nhân viên chuyên môn yếu và thiếu kỹ năng thực tiễn là vấn đề phổ biến ở nhiều cán bộ kế toán tại các ban quản lý dự án, đơn vị sự nghiệp công lập, UBND cấp xã/huyện hoặc thậm chí ở các phòng tài chính-kế hoạch, kho bạc nhà nước, Sở Tài chính. Nhiều cán bộ tuy có bằng cấp nhưng thiếu kinh nghiệm thực tế, lúng túng khi xử lý các tình huống phát sinh, không hiểu sâu bản chất các nghiệp vụ kế toán nhà nước, dẫn đến việc yêu cầu bổ sung hồ sơ không hợp lý, sai quy định hoặc không rõ ràng về cách thức xử lý các vướng mắc của đơn vị dự toán. Ngoài ra, tình trạng “sợ trách nhiệm” cũng khá phổ biến, khi nhiều cán bộ ngại quyết định, không dám thẩm định hoặc ký xác nhận hồ sơ, sợ sai quy định, dẫn đến việc đùn đẩy trách nhiệm, kéo dài thời gian xử lý thủ tục, gây chậm trễ trong thanh toán, giải ngân các khoản chi từ ngân sách. Trong một số trường hợp, thay vì hướng dẫn cụ thể để đơn vị hoàn thiện hồ sơ, cán bộ kế toán lại im lặng, né tránh hoặc yêu cầu lặp đi lặp lại các thủ tục không cần thiết, khiến đơn vị sử dụng ngân sách rơi vào trạng thái bị động, mệt mỏi và lãng phí thời gian.
Đáng lo ngại hơn, một bộ phận cán bộ lợi dụng sự mập mờ của thủ tục hành chính và trình độ yếu kém của đơn vị sử dụng ngân sách để nhũng nhiễu, vòi vĩnh, gợi ý “bôi trơn” nhằm đẩy nhanh quá trình xét duyệt hoặc bỏ qua các yêu cầu không cần thiết. Biểu hiện của hành vi nhũng nhiễu có thể rất tinh vi, như không trả lời rõ ràng bằng văn bản, trì hoãn phản hồi, cố tình “làm khó” trong khâu kiểm tra chứng từ, hoặc đưa ra yêu cầu bất hợp lý để tạo áp lực buộc đơn vị “tự hiểu”. Đây là biểu hiện rõ ràng của sự lạm quyền, thiếu liêm chính và vi phạm đạo đức công vụ, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả chi tiêu công và môi trường làm việc liêm chính trong khu vực nhà nước.
Một trong những hậu quả dễ thấy nhất là việc chậm thanh-quyết toán các dự án hoàn thành, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân vốn, gây ách tắc dòng tiền trong chuỗi hoạt động của dự án. Các nhà thầu, đơn vị thi công không được thanh toán kịp thời sẽ thiếu nguồn lực tài chính để duy trì hoạt động, dễ dẫn đến tình trạng chậm thi công, đội giá, thậm chí bỏ dở công trình. Điều này gây lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước và ảnh hưởng đến uy tín của cơ quan quản lý.
Thứ hai, việc giải ngân chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và mục tiêu phát triển của quốc gia. Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công hàng năm không đạt kế hoạch là do thủ tục hành chính phức tạp và sự thiếu hợp tác từ một số cán bộ tại các khâu trung gian, bao gồm kế toán, tài chính và kho bạc. Những sự chậm trễ vô lý này khiến các chủ đầu tư, ban quản lý dự án mất nhiều thời gian, công sức để chạy theo hồ sơ, trong khi nguồn lực đáng lẽ phải được ưu tiên cho việc triển khai dự án.
Ngoài ra, sự nhũng nhiễu trong khâu kế toán, tài chính còn làm suy giảm niềm tin của doanh nghiệp và người dân vào tính minh bạch của hệ thống công quyền. Điều này cản trở nỗ lực cải cách hành chính, xây dựng chính phủ điện tử, đồng thời ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư-kinh doanh, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh thu hút FDI và khuyến khích đầu tư tư nhân vào hạ tầng thông qua mô hình PPP.
3. Đề xuất giải pháp
Chỉ thị số 05/CTTTg ngày 01/3/2025 Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chỉ đạo quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và giải ngân vốn đầu tư công. Chủ trương này không chỉ nhằm đảm bảo rằng tổng số vốn đầu tư công năm 2025 đạt khoảng 1 triệu tỷ đồng mà tạo động lực cho việc phát triển kinh tế xã hội đạt mức tăng trưởng cả năm trên 8%. Để thực hiện được cần có giải pháp:
3.1 Con người
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả chi tiêu công và tăng tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, công tác thanh toán và quyết toán dự án đầu tư công được xác định là khâu quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước và tiến độ hoàn thành các dự án. Trong quá trình đó, con người, cụ thể là đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực hiện công tác kế toán, tài chính, kiểm soát, thẩm định và phê duyệt hồ sơ đóng vai trò then chốt. Mặc dù quy trình, thể chế, phần mềm, công cụ hỗ trợ ngày càng hiện đại hóa, nhưng yếu tố con người vẫn là trung tâm quyết định đến sự thành công hay trì trệ, minh bạch hay nhũng nhiễu trong hoạt động thanh toán và quyết toán. Luật Đầu tư công năm 2019, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Kế toán, các Nghị định, Thông tư của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã quy định đầy đủ quy trình, nguyên tắc thanh-quyết toán vốn đầu tư công. Tuy nhiên, những quy định này chỉ có thể phát huy hiệu lực thực tế khi được thực thi đúng đắn, linh hoạt và trách nhiệm bởi đội ngũ cán bộ chuyên môn. Từ khâu lập hồ sơ thanh toán, kiểm soát tại Kho bạc Nhà nước, phê duyệt quyết toán tại cơ quan tài chính…đều cần sự hiểu biết sâu sắc và vận dụng linh hoạt của cán bộ nghiệp vụ. Một quy định pháp luật, dù rõ ràng, nếu người thực hiện không nắm chắc bản chất, không hiểu tinh thần của luật, hoặc vận dụng máy móc, thì quy trình sẽ bị tắc nghẽn. Do đó, con người không chỉ là mắt xích trong quy trình mà còn là yếu tố “kích hoạt” toàn bộ hệ thống pháp lý và nghiệp vụ vận hành trơn tru. Công tác thanh toán, quyết toán vốn đầu tư công liên quan trực tiếp đến dòng tiền ngân sách-một nguồn lực công cần được sử dụng hiệu quả, tiết kiệm, đúng mục đích và đúng quy định. Trong quá trình đó, vai trò của con người không chỉ là kỹ thuật xử lý hồ sơ, mà còn là người giám sát, thẩm định và bảo vệ tính liêm chính của ngân sách. Nếu đội ngũ cán bộ có đạo đức công vụ tốt, có tinh thần trách nhiệm và chính trực, thì sẽ kiểm soát được các chi phí bất hợp lý, loại bỏ các khoản chi sai chế độ, ngăn ngừa tiêu cực. Ngược lại, nếu người thực hiện yếu kém về năng lực hoặc buông lỏng đạo đức nghề nghiệp thì sẽ dễ dẫn đến tình trạng nhắm mắt phê duyệt, hợp thức hóa chứng từ, thậm chí móc nối với nhà thầu để “rút ruột” ngân sách. Khi đó, thiệt hại không chỉ là tiền bạc, mà còn là sự suy giảm lòng tin của người dân vào tính minh bạch của nhà nước.
Không ít vụ án tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư công thời gian qua đã cho thấy vai trò tiêu cực của những cán bộ thoái hóa, biến chất trong khâu kiểm tra, quyết toán. Ví dụ như việc cố tình nâng khống khối lượng, hợp thức hóa các hạng mục không có thật, hoặc kéo dài thời gian phê duyệt để ép đơn vị thực hiện dự án phải “chung chi”. Những hành vi đó đều bắt nguồn từ lỗ hổng trong nhân sự-con người yếu kém cả về năng lực và đạo đức.
Hiện nay, giải ngân vốn đầu tư công là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn sau dịch bệnh và biến động toàn cầu. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến tiến độ giải ngân chậm là đội ngũ cán bộ thực hiện các thủ tục thanh-quyết toán thiếu năng lực chuyên môn, chậm xử lý hồ sơ, sợ trách nhiệm hoặc trì hoãn. Ví dụ, tại một số địa phương, hồ sơ quyết toán hoàn thành đã nộp đầy đủ, nhưng cán bộ được giao thẩm định không trả lời, không phản hồi chính thức, hoặc trả lại hồ sơ nhiều lần với lý do không rõ ràng. Điều này khiến các Ban quản lý dự án, đơn vị sử dụng vốn phải mất nhiều thời gian sửa đổi, bổ sung, gây chậm trễ giải ngân, ảnh hưởng đến dòng tiền của nhà thầu và tiến độ các gói thầu tiếp theo. Ngược lại, ở những nơi có cán bộ kế toán, tài chính, kho bạc nhiệt tình, chuyên nghiệp, am hiểu quy định, có tinh thần hỗ trợ, thì quy trình thanh toán, quyết toán diễn ra nhanh gọn, rõ ràng, giúp dự án vận hành trôi chảy, tránh tồn đọng vốn ngân sách. Điều đó cho thấy, năng lực và thái độ làm việc của con người là yếu tố quyết định tốc độ và chất lượng của cả quá trình tài chính trong đầu tư công.
Nhận thức được vai trò trung tâm của con người, các cấp chính quyền, đặc biệt là Bộ Tài chính cần coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá chất lượng cán bộ làm công tác thanh toán-quyết toán. Trước hết, cần chuẩn hóa đội ngũ kế toán, tài chính trong khu vực công, thông qua sát hạch định kỳ, yêu cầu chứng chỉ hành nghề, và tổ chức cập nhật thường xuyên các quy định pháp luật mới. Việc cập nhật này không chỉ đơn thuần là đọc văn bản, mà cần được thực hành tình huống, thảo luận chuyên đề, học từ các bài học thực tiễn điển hình. Thứ hai, cần xây dựng hệ thống đánh giá hiệu quả công tác của từng cán bộ, có thể gắn với chỉ số KPI cụ thể, như: thời gian xử lý hồ sơ, số lượng hồ sơ được xử lý đúng hạn, mức độ hài lòng của đơn vị sử dụng ngân sách, số lượng kiến nghị bị trả lại không chính đáng… Các chỉ số này sẽ giúp nhận diện được cán bộ làm việc tốt, cũng như phát hiện ra những người trì trệ, gây khó dễ hoặc có dấu hiệu tiêu cực. Thứ ba, tăng cường trách nhiệm giải trình và xử lý cán bộ yêu cầu sai quy định. Mỗi yêu cầu trả hồ sơ phải được ghi rõ lý do bằng văn bản. Nếu phát hiện yêu cầu vượt quy định, cơ quan quản lý cấp trên cần có hình thức xử lý cán bộ vi phạm, đảm bảo tính nghiêm minh trong thực thi công vụ. Đào tạo, nâng cao nhận thức và tinh thần phục vụ của cán bộ chuyên môn: Cán bộ tài chính, kế toán, kho bạc cần được đào tạo lại, cập nhật kiến thức pháp luật mới nhất, đồng thời được nhấn mạnh vai trò phục vụ chứ không phải kiểm soát cứng nhắc. Bên cạnh đó, cần khuyến khích tinh thần phục vụ, thay vì tâm lý "xin-cho" hay "trên-dưới". Khi cán bộ coi việc hỗ trợ thanh-quyết toán là trách nhiệm phục vụ ngân sách, phục vụ nhân dân, thì bản thân họ sẽ chủ động, sáng tạo, hợp tác và gắn bó hơn với công việc.
3.2 Hồ sơ thanh toán, quyết toán
Theo quy định hiện hành, hồ sơ quyết toán dự án hoàn thành bao gồm các thành phần chính như: báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành, báo cáo kiểm toán (nếu có), bản vẽ hoàn công, biên bản nghiệm thu, hợp đồng và phụ lục hợp đồng, hóa đơn chứng từ, bảng tổng hợp chi phí, bảng đối chiếu với kho bạc v.v. Tuy nhiên, tại nhiều địa phương và đơn vị, cơ quan thẩm tra, thẩm định hoặc kho bạc nhà nước yêu cầu bổ sung nhiều loại tài liệu không được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành, chẳng hạn: Văn bản chủ trương đầu tư ban đầu (dù đã có trong hồ sơ dự án phê duyệt); Quyết định phê duyệt hồ sơ thiết kế bản vẽ thi công, mặc dù đã được phê duyệt trong tổng mức đầu tư và thực hiện từ trước; Văn bản xác nhận hoàn thành nghĩa vụ thuế của nhà thầu; Hồ sơ đấu thầu đầy đủ, thay vì chỉ cần trích xuất thông tin cần thiết; Các biên bản nghiệm thu phụ không liên quan trực tiếp đến hạng mục đưa vào sử dụng; Các tài liệu điện tử đã có trên hệ thống nhưng vẫn yêu cầu bản in, đóng dấu. Để tháo gỡ tình trạng này, cần một số giải pháp đồng bộ sau:
- Rà soát và ban hành danh mục hồ sơ bắt buộc tối thiểu: Các bộ, ngành như Bộ Tài chính cần phối hợp xây dựng “danh mục hồ sơ quyết toán bắt buộc” theo từng loại dự án và cập nhật thường xuyên. Từ đó, cơ quan thẩm tra không được phép yêu cầu ngoài danh mục, trừ khi có lý do pháp lý cụ thể. Trong bối cảnh đó, việc rà soát và ban hành một “danh mục hồ sơ bắt buộc tối thiểu” áp dụng thống nhất trên toàn quốc, với cơ sở pháp lý rõ ràng, là một giải pháp quan trọng, mang tính cốt lõi để chấn chỉnh tình trạng lạm dụng thủ tục, đồng thời tạo thuận lợi cho các chủ đầu tư, ban quản lý dự án và các cơ quan thẩm định khi thực hiện quyết toán vốn đầu tư công. Vai trò đầu mối trong quá trình này thuộc về Bộ Tài chính, phối hợp chặt chẽ với Bộ Xây dựng, các bộ chuyên ngành và hệ thống Kho bạc Nhà nước, bảo đảm vừa đúng pháp luật, vừa thực tiễn, đồng thời có tính cập nhật cao.
Việc xây dựng và ban hành danh mục này cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc pháp lý: Danh mục phải được ban hành kèm theo văn bản quy phạm pháp luật (Thông tư của Bộ Tài chính hoặc liên tịch giữa các bộ), có hiệu lực áp dụng toàn quốc, là căn cứ pháp lý để cơ quan thẩm tra không yêu cầu hồ sơ vượt quá danh mục trừ khi có lý do pháp luật cụ thể.
+ Nguyên tắc tối giản và đủ dùng: Chỉ bao gồm những tài liệu thực sự cần thiết để chứng minh các nội dung cần quyết toán như khối lượng hoàn thành, chi phí thực tế, giá trị thanh toán. Loại bỏ các tài liệu đã được phê duyệt ở các giai đoạn trước (chủ trương đầu tư, thiết kế kỹ thuật…nếu đã có trong hồ sơ lưu trữ dự án).
+ Nguyên tắc phân loại rõ ràng theo loại hình dự án: Mỗi loại dự án (giao thông, hạ tầng kỹ thuật, thủy lợi, giáo dục, y tế…) sẽ có đặc thù khác nhau. Do đó, danh mục cần được xây dựng theo nhóm dự án, không áp dụng cứng nhắc một mẫu cho tất cả.
+ Nguyên tắc tương thích với dữ liệu điện tử: Tận dụng dữ liệu đã được cập nhật trên hệ thống đầu tư công (MIS), hệ thống kế toán ngân sách (TABMIS), để giảm yêu cầu tài liệu trùng lặp. Việc kết nối dữ liệu giữa các cơ quan như Kho bạc-Tài chính-Kiểm toán-Thuế cần được đồng bộ điện tử, tránh yêu cầu lặp lại những giấy tờ đã có trên hệ thống. Cần tăng cường thanh toán không giấy tờ, xác thực qua chữ ký số và hồ sơ điện tử.
Chậm trễ quyết toán dự án hoàn thành là một “điểm nghẽn” có nhiều nguyên nhân, từ khách quan (dịch bệnh, thị trường) đến chủ quan (thủ tục phức tạp, năng lực yếu, thiếu trách nhiệm, phối hợp kém, công nghệ chưa đồng bộ). Việc này trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả giải ngân vốn đầu tư công, làm trì hoãn kế hoạch năm, tăng chi phí và giảm nguồn lực cho dự án tiếp theo. Cần có một giải pháp tổng thể, kết hợp cải cách pháp luật, đơn giản hóa quy trình, nâng chất năng lực, đẩy mạnh chuyển đổi số, tăng cường giám sát trách nhiệm, phân cấp phù hợp và phối hợp liên ngành. Chỉ khi đó, quyết toán dự án được thực hiện đúng hạn, giúp vốn đầu tư công được triển khai nhanh, hiệu quả, đúng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Để đầu tư công thực sự phát huy hiệu quả, cần cải thiện chất lượng quản lý đầu tư, nâng cao tính minh bạch, tránh thất thoát lãng phí và đảm bảo tiến độ, chất lượng công trình. Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, tăng cường giám sát của xã hội, Quốc hội và các cơ quan kiểm toán, thanh tra là điều cần thiết để đầu tư công đi đúng hướng, đúng mục tiêu, đúng hiệu quả. Đồng thời, cần gắn kết đầu tư công với chiến lược phát triển tổng thể quốc gia, tránh dàn trải, đầu tư manh mún hoặc đầu tư theo phong trào.
[1] https://thanhtra.com.vn/tin-trong-nuoc-A7403F0EC/phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-trong-dau-tu-cong-nhin-tu-mot-so-vu-an-lon-0239926ca.html;
[2] https://thoibaotaichinhvietnam.vn/nhieu-du-an-von-dau-tu-cong-hoan-thanh-nhung-chua-quyet-toan-129780.html;